Coi
phát triển văn hóa và con người Việt Nam là mục tiêu, mục đích của sự phát
triển bền vững xã hội. Khi chúng ta tạo động lực, có niềm tin và truyền cảm
hứng từ sự phát triển văn hóa thì đất nước mới phát triển bền vững, tạo điều
kiện lan tỏa lợi ích cho những lĩnh vực khác như chính trị, xã hội, giáo dục,
công nghệ… từ sức mạnh của văn hóa.

PGS.TS
Bùi Hoài Sơn. Ảnh: VGP
PGS.TS
Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Viện
trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam đã nhấn mạnh nội dung trên
trong buổi trao đổi với Báo Điện tử Chính phủ về các vấn đề liên quan đến phát
triển văn hóa và con người Việt Nam trước thềm Hội nghị Văn hóa toàn quốc sắp
diễn ra.
“Hội
nghị Diên Hồng về văn hóa”
Trọng
tâm xuyên suốt của Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần này là chúng ta dẫn luận, hệ
thống lại các quan điểm của Đảng, tư tưởng của Bác Hồ về văn hóa, khơi dậy khát
vọng xây dựng đất nước văn hóa hùng cường, ông đánh giá như thế nào về việc tổ
chức hội nghị này trong bối cảnh hiện nay và việc Đảng và Nhà nước ta luôn dành
sự quan tâm đến phát triển văn hóa?
Ông
Bùi Hoài Sơn: Đây là thời điểm vô cùng phù hợp để tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn
quốc. Sự phù hợp này đến từ nhiều lý do, thứ nhất là đây là dịp kỷ niệm 75 năm
Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (24/11/1946). Hội nghị được tổ chức khi
thực dân Pháp mới nổ súng vào Hải Phòng được mấy hôm, đất nước đang đứng trước
những tình thế vô cùng nguy hiểm nhưng chúng ta vẫn quyết tâm tổ chức một Hội
nghị văn hóa để khơi dậy sức mạnh của dân tộc từ văn hóa, bằng văn hóa. Những
thông điệp quan trọng của Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất như “Văn hóa
soi đường quốc dân đi” đã truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho dân tộc để chúng
ta có được văn hóa cứu quốc. Chính nhờ văn hóa cứu quốc đó chúng ta giải phóng
dân tộc.
Thứ
hai là chúng ta tổ chức thành công Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Tại Đại
hội này, Đảng ta đã có nhiều thông điệp, quan điểm đột phá về phát triển văn
hóa, xây dựng con người văn hóa. Chúng ta cần triển khai đồng bộ những thông
điệp, quan điểm này để từ đó có những kế hoạch cụ thể phát triển văn hóa.
Thứ
ba, trong bối cảnh xã hội ngày nay, sự phát triển của kinh tế thị trường, quá
trình hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng sự phát triển của cách mạng công nghiệp
lần thứ 4 đã đặt rất nhiều vấn đề liên quan đến văn hóa và con người Việt Nam.
Chính vì thế chúng ta cần có cách tiếp cận và tư duy mới để xử lý những vấn đề
về văn hóa, những vấn đề liên quan đến xây dựng con người để bảo đảm được những
mục tiêu mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đặt ra là đến năm 2030 chúng
ta trở thành nước công nghiệp có mức thu nhập trung bình, đến năm 2045 chúng ta
trở thành nước công nghiệp phát triển có thu nhập cao. Toàn bộ những bối cảnh
và vấn đề này cần phải có cách tiếp cận mới về văn hóa, con người Việt Nam vì
chúng ta luôn coi văn hóa và con người Việt Nam là mục tiêu, mục đích của sự phát
triển bền vững xã hội. Khi chúng ta tạo động lực, có niềm tin và truyền cảm
hứng từ sự phát triển văn hóa thì đất nước mới phát triển bền vững, tạo điều
kiện lan tỏa lợi ích cho những lĩnh vực khác như chính trị, xã hội, giáo dục,
công nghệ… từ sức mạnh của văn hóa.
Hội
nghị Văn hóa toàn quốc là sự kiện được trông đợi, được coi là “Hội nghị Diên
Hồng về văn hóa”. Ở đó những người yêu văn hóa, những người làm việc trong lĩnh
vực văn hóa nghệ thuật có thể đề xuất những sáng kiến và hiến kế cho sự phát
triển văn hóa của đất nước. Ở đó lãnh đạo Đảng và Nhà nước khẳng định quyết tâm
phát triển văn hóa nghệ thuật, đưa ra những thông điệp quan trọng cho phát
triển văn hóa nghệ thuật.
Tôi
hy vọng sau Hội nghị việc truyền cảm hứng từ Hội nghị sẽ tác động đến các cấp,
các ngành ở địa phương đối với việc chăm lo cho phát triển văn hóa nghệ thuật.
Khi đã ý thức nhiều hơn về phát triển văn hóa, về lợi ích và trách nhiệm trong
phát triển văn hóa cũng như đưa ra những kế hoạch trong tương lai để phát triển
văn hóa thì chúng ta tin tưởng văn hóa có nhiều cơ hội đóng góp vào sự phát
triển đất nước.
Cần
hình thành hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị gia đình và hệ giá trị con người
Việt Nam
Quá
trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, mà cốt lõi
là làm cho chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong
đời sống tinh thần của xã hội, cũng chính là quá trình xây dựng con người, phát
huy tối đa nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người. Theo ông nội dung
này chúng ta đã thực hiện được đến đâu và cần khắc phục những điểm gì?
Ông
Bùi Hoài Sơn: Năm 1998 chúng ta ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương khóa 8 về xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân
tộc. Chúng ta thấy rằng trong giai đoạn đó, quá trình hội nhập quốc tế của đất
nước đặt ra rất nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức liên quan đến phát
triển văn hóa Việt Nam. Chính trong bối cảnh đó chúng ta cần xác định rằng,
phải gìn giữ những giá trị văn hóa của dân tộc để khẳng định bản sắc của mình
trong một thế giới hội nhập. Văn hóa còn thì đất nước còn, văn hóa mất thì đất
nước mất, vì hội nhập trong một thế giới quá sâu rộng thì những tác động của
nền kinh tế thị trường hay quá trình toàn cầu hóa là điều chúng ta không thể
chối bỏ được. Đất nước mở cửa, chúng ta tiếp thu văn hóa của thế giới, tuy
nhiên phải cân nhắc tiếp thu những gì phù hợp để làm giàu hơn bản sắc văn hóa
dân tộc, để có hành trang vững chắc và phù hợp hơn trong một bối cảnh xã hội
mới. Việc tiếp thu tinh hoa văn hóa trở thành mục tiêu quan trọng của chúng ta.
Đó là những lý do căn bản để chúng ta thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5
Ban Chấp hành Trung ương khóa 8.
Qua
15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa 8,
chúng ta còn có một thách thức nữa đến từ sự phát triển của khoa học công nghệ,
đặc biệt là sự xuất hiện của các phương tiện truyền thông mới. Mạng xã hội đã
tạo ra một thế giới mới ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển con
người. Chính vì vậy, Đảng ta ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp
hành Trung ương lần thứ 11 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng sự phát triển bền vững của đất nước. Khi đó chúng ta quan niệm để
phát triển văn hóa thì phải đặt vị trí của văn hóa ở một tầm quan trọng, ngang
hàng với chính trị, kinh tế, xã hội. Xây dựng văn hóa với mục đích là phát
triển con người và xây dựng con người có văn hóa. Qua đó thấy được mối quan hệ
biện chứng giữa xây dựng văn hóa và con người. Để làm được như vậy chúng ta có
rất nhiều việc phải làm. Chúng ta có những điểm nghẽn nhất định khi có những
câu chuyện liên quan đến xuống cấp đạo đức trong xã hội, hay nhiều hiện tượng
lệch chuẩn, không phù hợp trong hành vi của con người. Do đó, trọng tâm chúng
ta phải xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để từ đó tạo điều kiện phát triển
nhân cách tốt, phẩm chất phù hợp của con người Việt Nam.
Thứ
hai là chúng ta cần hình thành hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị gia đình và hệ
giá trị con người Việt Nam để dựa trên các hệ giá trị đó, định hướng sự phát
triển cho đất nước, cho gia đình và cho từng cá nhân. Trong xã hội ngày nay, có
rất nhiều yếu tố chi phối đến mỗi cá nhân, gia đình, đất nước, tạo ra sự lãng
tâm của chúng ta trong việc rèn luyện đạo đức cho chính mình. Đồng thời, chúng
ta cũng cần nhấn mạnh đến yếu tố quan trọng đó là phát triển ngành công nghiệp
văn hóa Việt Nam. Chúng ta tạo ra những sản phẩm, dịch vụ văn hóa của người
Việt Nam, cho người Việt Nam và vì người Việt Nam. Từ đó lan tỏa những thông
điệp, hình ảnh, giá trị Việt Nam ra toàn thế giới. Đó cũng là xu hướng phát
triển trên thế giới. Văn hóa không chỉ là lĩnh vực liên quan đến đời sống tinh
thần, đạo đức mà thậm chí là những lĩnh vực gần gũi đến đời sống kinh tế, xã
hội của con người. Thậm chí với những sản phẩm cụ thể như một bộ phim, một câu
chuyện, một bài hát… có tác dụng truyền cảm hứng đến con người, tạo ra những
giá trị giáo dục về đạo đức thông qua đó. Vì thế cần tập trung nhiều hơn vào
sản phẩm văn hóa nói riêng và công nghiệp văn hóa nói chung để không chỉ phát
triển con người toàn diện, phát triển văn hóa đất nước mà còn tạo ra những lợi
ích, sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước. Đó là những vấn đề cần phải quan
tâm và chúng ta muốn thông qua Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần này, toàn bộ
những vấn đề đó được đưa ra bàn luận, trên cơ sở đó để lãnh đạo Đảng và Nhà
nước đưa ra những thông điệp quan trọng định hướng phát triển văn hóa trong
những năm tới, tạo ra những quyết tâm, niềm tiên trong việc xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam.
Đưa
công nghiệp văn hóa trở thành một trong những đột phá
Ông
vừa đề cập đến công nghiệp văn hóa thì các sản phẩm công nghiệp văn hóa của
quốc gia khi ra khỏi biên giới sẽ không chỉ đơn thuần là những hàng hóa văn hóa
mà còn là biểu tượng, bản sắc, hình ảnh, thương hiệu quốc gia. Vậy theo ông
chúng ta cần phát triển có trọng điểm, trọng tâm ngành công nghiệp văn hóa như
thế nào để xác định rõ giá trị, bản sắc và sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam?
Ông
Bùi Hoài Sơn: Đảng và Nhà nước đã nhận thấy rõ vai trò, vị trí, giá trị
của các ngành công nghiệp văn hóa trong sự phát triển bền vững đất nước. Trong
phát triển công nghiệp văn hóa không chỉ là câu chuyện về kinh tế mà còn là câu
chuyện về chính trị, giáo dục… hay nhiều lĩnh vực khác. Phát triển công nghiệp
văn hóa còn là xu thế của thế giới. Các ngành công nghiệp văn hóa trên thế giới
có tốc độ tăng trưởng gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của mỗi quốc
gia. Xu thế trên thế giới cũng hướng đến việc sử dụng các tài năng sáng tạo,
vốn văn hóa trên cơ sở kết hợp với các kỹ năng kinh doanh, công nghệ để tạo ra
các sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa phù hợp, tạo điều kiện cho sự phát
triển bền vững của mỗi quốc gia mà các tài năng sáng tạo và vốn văn hóa là
những nguồn tài nguyên không bao giờ cạn kiệt của bất kỳ quốc gia nào nếu chúng
ta biết cách sử dụng. Chính vì vậy chúng ta không thể đi sau và đứng ngoài xu
hướng phát triển này. Đó là lý do quan trọng để Đảng và Nhà nước đưa công
nghiệp văn hóa trở thành một trong những đột phá của phát triển văn hóa trong
những năm sắp tới.
Chủ
trương phát triển công nghiệp văn hóa được thể hiện rất rõ trong Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 (Nghị quyết 33) và trong
những văn bản tiếp theo đều nhấn mạnh đến phát triển ngành công nghiệp văn hóa.
Ở Việt Nam có 12 ngành công nghiệp văn hóa và đều là thế mạnh của chúng ta.
Trong 12 ngành này có một số ngành thực sự đang là động lực cho sự phát triển
đất nước như: Du lịch văn hóa, ẩm thực, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, thời
trang, truyền hình… Những lĩnh vực này chúng ta có rất nhiều tiềm năng, nếu
phát triển công nghiệp văn hóa thì sẽ tác động lan tỏa cho các ngành khác.
Việc
tập trung phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ tạo ra các xu thế trên
thế giới, đồng thời tạo ra sức mạnh mềm của Việt Nam để quảng bá những giá trị
văn hóa Việt Nam ra toàn thế giới. Chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng ngành công
nghiệp văn hóa Việt Nam không hề thua kém với các nước khi chúng ta có hàng
ngàn năm lịch sử với 54 dân tộc anh em, có truyền thống, câu chuyện, ký ức, di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể … có thể tạo thành những chất liệu quý giá,
từ đó tạo nên sự đặc sắc, những giá trị riêng của Việt Nam. Từ những giá trị
riêng đó, chúng ta chiếm lĩnh thị trường thế giới. Chúng ta đã có những quyết
tâm về chính trị, có sự năng động trong thực tế với những sản phẩm văn hóa có
thể khai thác giá trị văn hóa của dân tộc… chúng ta tận dụng được những giá trị
đó bằng những tài năng của Việt Nam, sẽ giúp cho đất nước phát triển bền vững,
giúp khẳng định bản lĩnh giá trị Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy
nhiên sự phát triển này vẫn chưa đạt được như mong muốn bởi có nhiều lý do. Lý
do đầu tiên là nhận thức về văn hóa hay công nghiệp văn hóa vẫn chưa thực sự
tốt ở chỗ này, chỗ kia, lúc này, lúc khác. Chính vì những nhận thức như vậy
khiến cho việc triển khai các quan điểm của Đảng và chiến lược của Chính phủ
trong thực tiễn gặp rất nhiều vấn đề. Chúng ta có chiến lược phát triển văn
hóa, các địa phương đều có kế hoạch, tuy nhiên triển khai trong thực tiễn gặp
lúng túng, quan trọng nhất là chưa hiểu được giá trị, vai trò, ý nghĩa của công
nghiệp văn hóa đối với các địa phương, với các lĩnh vực. Khi chưa hiểu thì
không có các kế hoạch khả thi, bền vững.
Thứ
hai, rõ ràng trong thể chế hóa các quan điểm của Đảng gặp nhiều vấn đề. Đó là
các luật về văn hóa mới xem văn hóa là lĩnh vực giải trí hay là lĩnh vực thiên
về đời sống tinh thần mà chưa thấy có sự gắn bó giữa văn hóa nghệ thuật với đời
sống kinh tế. Chính vì thế trong việc sửa Luật Điện ảnh hiện nay, một trong
những tư duy hướng đến là xây dựng điện ảnh trở thành ngành công nghiệp văn hóa
hay cụ thể hơn là công nghiệp điện ảnh. Trong các lĩnh vực khác cũng tương tự
như vậy, phải xem xét ở trong cách tiếp cận là một ngành công nghiệp văn hóa.
Khi đó sẽ tạo ra những lĩnh vực văn hóa thực sự chuyên nghiệp và gắn kết giữa
tài năng sáng tạo, giữa khai vốn văn hóa của dân tộc, công nghệ và kỹ năng kinh
doanh để tạo ra những sản phẩm văn hóa giải trí một cách chuyên nghiệp. Việc
thể chế hóa đang trong quá trình hoàn thiện dần nên có nhiều điều chưa đạt
được, chưa tạo điều kiện để phát triển các ngành văn hóa. Ví dụ chúng ta chưa
có luật về hiến tặng và tài trợ cho lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Khi có luật
này sẽ tạo điều kiện cho việc huy động mọi nguồn lực cho sự phát triển văn hóa
nghệ thuật. Chúng ta cũng chưa có chính sách liên quan đến thuế, đất đai, địa
vị pháp lý cho không gian sáng tạo…
Thứ
ba là chúng ta chưa có được hệ thống hoàn chỉnh về giáo dục sáng tạo. Giáo dục
về nghệ thuật trong các trường được coi là yếu tố quan trọng trong giáo dục
sáng tạo mới được coi như môn phụ. Những môn này “có cũng được mà không có cũng
được” nhưng trên thực tế những môn này rất quan trọng đối với việc phát triển
con người toàn diện vì không chỉ hướng con người đến những giá trị chân, thiện,
mỹ và giúp con người có sức đề kháng với những điều xấu, để trở thành người tốt
dễ dàng hơn và còn tạo ra những con người sáng tạo. Khi tạo ra con người sáng
tạo sẽ tạo ra tinh thần sáng tạo cho toàn xã hội, tạo ra tinh thần khởi nghiệp
giúp ích rất nhiều cho quốc gia khởi nghiệp.
Bên
cạnh đó, giáo dục kinh doanh nghệ thuật còn rất thiếu, chủ yếu mới giảng dạy về
chuyên môn chứ chưa giảng dạy cho các nghệ sĩ hiểu hơn về thị trường của họ, về
các khía cạnh kinh tế trong văn hóa nghệ thuật. Ngoài ra còn có các vấn đề
trong kết nối tinh thần sáng tạo, giữa các đơn vị biểu diễn nghệ thuật, giữa
Nhà nước và tư nhân trong hoạt động văn hóa nghệ thuật…
“Di
sản văn hóa cả vật thể và phi vật thể là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân
tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và
giao lưu văn hóa”, công tác giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa cũng như
tuyên truyền để thế hệ trẻ ngày nay và du khách biết đến nhiều hơn về văn hóa
Việt Nam vẫn còn những mặt hạn chế, ông đánh giá như thế nào về vấn đề này?
Ông
Bùi Hoài Sơn: Qua 35 năm đổi mới, chúng ta đã làm được nhiều điều cho di
sản. Đầu tiên là Luật Di sản Văn hóa năm 2001 và sửa đổi năm 2009. Thêm vào đó
là có rất nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận và
ghi danh, chứng tỏ bề dày, mức độ đa dạng và phong phú của di sản văn hóa Việt
Nam, đồng thời chứng tỏ uy tín của Việt Nam trong việc bảo vệ và phát huy giá
trị di sản. Ngoài vinh danh của UNESCO còn có rất nhiều di sản được công nhận
cấp quốc gia, cấp tỉnh, nhiều di sản được bảo tồn phát huy giá trị. Tuy nhiên
kỳ vọng kho tàng di sản văn hóa cha ông để lại có thể được phát huy, khai thác
nhiều hơn nữa phục vụ cho sự phát triển bền vững đất nước.
Tuy
nhiên thế hệ trẻ ngày nay chưa biết nhiều về di sản, vì có nhiều lý do trong đó
có giáo dục lịch sử, giáo dục di sản chưa phù hợp. Điều đó được thể hiện qua
điểm thi lịch sử thường thấp, học sinh cảm thấy môn lịch sử tẻ nhạt. Câu chuyện
ở đây không phải lịch sử tẻ nhạt, di sản đơn điệu mà quan trọng là chưa khơi
gợi sự hấp dẫn của di sản văn hóa Việt Nam để người dân nói chung và đặc biệt
là thế hệ trẻ nói riêng hiểu và yêu di sản. Muốn yêu di sản trước tiên phải
hiểu di sản, muốn vậy phải làm cho di sản trở nên hấp dẫn hơn và phù hợp hơn
với bối cảnh hôm nay.
Chính
vì vậy một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới là phải làm sao
cho giới trẻ hiểu được giá trị của di sản từ đó có được tình yêu với di sản, có
tình yêu với đất nước và gắn kết với sự phát triển của đất nước.
Theo
baochinhphu.vn