Hội nghị
Văn hóa toàn quốc vừa diễn ra đã xác định chín nhóm giải pháp trọng tâm nhằm
xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam thời gian
tới, trong đó có nội dung “Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa
bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội.
Bảo tồn,
tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống
và phát triển kinh tế-xã hội; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát
triển du lịch... Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá
hình ảnh đất nước và con người Việt Nam”.

Đoan Môn là
cửa chính phía Nam vào Hoàng thành Thăng Long được xây dựng vào thời nhà Lê
trung hưng được tu sửa vào thời nhà Nguyễn. Ảnh: TTXVN.
Việt Nam sở
hữu một hệ thống đồ sộ các di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh ở cấp
độ quốc gia hoặc địa phương, trải dài khắp đất nước; cùng với hệ thống các lễ
hội, làng nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực đặc sắc của các vùng miền, các di
sản văn hóa-nghệ thuật, văn nghệ dân gian, bảo tàng... Đây là những tài nguyên
du lịch hết sức giá trị, mang tính đặc trưng văn hóa đặc sắc của Việt Nam, là
nguồn lực quan trọng tạo thế mạnh và sự khác biệt cho sản phẩm du lịch. Trong
ba năm liên tiếp, 2019 đến 2021, Việt Nam được tổ chức Giải thưởng Du lịch thế
giới (WTA) bình chọn là “Điểm đến văn hóa hàng đầu châu Á”. Điều đó cho thấy,
giá trị di sản văn hóa của Việt Nam luôn có sức hấp dẫn, thu hút khách du lịch
quốc tế.
Trước khi
đại dịch Covid-19 bùng phát, giai đoạn 2015-2019, du lịch Việt Nam đã đạt được
những dấu mốc ấn tượng với mức tăng trưởng bình quân về lượt khách đạt
22,7%/năm và về doanh thu đạt 20,7%/năm; riêng năm 2019, tổng thu từ du lịch
đạt 755 nghìn tỷ đồng, đóng góp 9,2% vào GDP của cả nước. Trong đó, du lịch văn
hóa đã khẳng định vai trò quyết định tạo nên kết quả ấn tượng này. Tham quan di
sản văn hóa tại Việt Nam là hoạt động được khách du lịch quốc tế ưa thích thứ
hai, sau nghỉ dưỡng tắm biển. Nhiều sản phẩm như tham quan Di sản văn hóa thế
giới Cố đô Huế, phố cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn, danh thắng Tràng An…; tham gia các
lễ hội truyền thống nhận được sự quan tâm lớn của du khách và trở thành những
sản phẩm du lịch có thương hiệu, hấp dẫn.
Tuy nhiên,
sự tăng trưởng du lịch nhanh chóng đã đặt ra những thách thức: nhiều giá trị di
sản văn hóa bị thương mại hóa một cách quá mức, làm suy giảm giá trị văn hóa và
truyền thống, phai nhạt bản sắc; nhiều nét văn hóa truyền thống, lối sống,
phong tục, tập quán địa phương bị phá vỡ, biến đổi; xuất hiện sự đồng hóa văn
hóa ngoại lai, những mâu thuẫn về chia sẻ lợi ích…
Để vượt qua
những thách thức nêu trên, du lịch sáng tạo trên nền tảng văn hóa được xem như
một giải pháp, một hướng đi hữu hiệu. Du lịch sáng tạo là loại hình du lịch
mang đến cho du khách cơ hội phát triển tiềm năng sáng tạo của mình nhờ tương
tác, tham gia trực tiếp vào các trải nghiệm học hỏi văn hóa bản địa và đặc
trưng của điểm đến. Phát triển du lịch sáng tạo dựa trên nền tảng văn hóa sẽ
giúp du lịch Việt Nam đa dạng hóa hệ thống sản phẩm du lịch, gia tăng giá trị
cho các sản phẩm du lịch văn hóa truyền thống, phát triển thương hiệu du lịch
độc đáo và xúc tiến quảng bá tốt hơn thông qua hiệu ứng mạng xã hội, thu hút
được thêm dòng khách trung cấp đến cao cấp, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh.
Để làm được
những điều này, cần có những điều chỉnh trong hoạch định chính sách và hành
động. Nhìn nhận đúng vai trò của cộng đồng đối với việc bảo tồn và phát huy các
giá trị di sản; vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của cộng đồng trong phát
triển du lịch. Bảo đảm hài hòa giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển du
lịch; bảo đảm phát triển bền vững trong hoạt động du lịch tại các di tích, di
sản văn hóa; tôn trọng tính đa dạng văn hóa, tính chỉnh thể của di sản văn hóa
phi vật thể. Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương và địa phương
cần triển khai điều tra, phân loại và đánh giá các tài nguyên du lịch một cách
đồng bộ, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch văn hóa.
Trong xây
dựng sản phẩm du lịch sáng tạo dựa trên nền tảng văn hóa phải bảo đảm các
nguyên tắc: sản phẩm du lịch mang được linh hồn của văn hóa truyền thống, có
nhiều yếu tố đặc sắc, đặc thù cho từng tộc người, từng vùng, miền khác nhau,
qua đó gia tăng sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm du lịch;
khắc phục tình trạng sản phẩm du lịch na ná giống nhau hiện nay. Kết hợp hài
hòa giữa tính đa dạng của nhiều loại hình sản phẩm và tính chuyên đề của một
gói sản phẩm du lịch văn hóa. Bảo đảm chất lượng của sản phẩm du lịch văn hóa
dân tộc thiểu số; việc tổ chức các chương trình văn nghệ, các nghi lễ trình
diễn, các sinh hoạt văn hóa của các dân tộc thiểu số phải tôn trọng tính khách
quan, chân thực của sắc thái văn hóa các dân tộc.
Có cơ chế
phối hợp và phân chia nguồn lợi từ du lịch di sản văn hóa. Xây dựng các điểm
đến du lịch di sản văn hóa là công việc mới mẻ đối với người dân, đồng thời là
lĩnh vực kinh doanh phức tạp. Vì vậy, phát triển du lịch di sản văn hóa cần có
sự kết hợp của các bên liên quan, gồm: người dân, doanh nghiệp, nhà nghiên cứu
và chính quyền địa phương. Trong đó, người dân địa phương là chủ thể chính
trong các hoạt động du lịch văn hóa tại các điểm du lịch.
Theo lãnh
đạo Tổng cục Du lịch, trong thời gian tới, ngành du lịch và văn hóa sẽ có nhiều
việc, nhiều giải pháp cần làm. Song, chắc chắn rằng việc phát huy giá trị di
sản văn hóa trong phát triển du lịch sẽ có vai trò to lớn, tạo ra chiều sâu
chất lượng và sự hồi phục, bứt phá cho du lịch Việt Nam.
Theo
nhandan.vn